Trong dòng chảy tám thập kỷ kể từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời năm 1945, kinh tế Việt Nam đã trải qua một hành trình đầy biến động, phản ánh sự đan xen giữa hoàn cảnh lịch sử, lựa chọn chính sách và bối cảnh quốc tế. Từ xuất phát điểm là một nền kinh tế kiệt quệ sau nạn đói năm 1945, thiếu thốn gần như toàn bộ nguồn lực vật chất, Việt Nam đã phải trải qua những năm dài chiến tranh khốc liệt, giai đoạn bao cấp trì trệ, rồi công cuộc Đổi mới từ năm 1986 mở ra bước ngoặt cho đất nước. Từng bước vượt qua khủng hoảng, kiên trì hội nhập, đất nước đã dần định hình mô hình kinh tế thị trường, tận dụng hiệu quả làn sóng toàn cầu hóa như lực gió để nâng cánh diều kinh tế đất nước bay lên.

Đến nay, Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong những nền kinh tế mới nổi năng động bậc nhất châu Á, với tốc độ tăng trưởng thuộc nhóm cao trong nhiều thập kỷ liên tục. GDP bình quân đầu người năm 2025 đã vượt ngưỡng 5.000 USD, đánh dấu cột mốc quan trọng khi đất nước chạm ngưỡng nhóm quốc gia có thu nhập trung bình cao theo chuẩn của Ngân hàng Thế giới. Điều này minh chứng cho sức mạnh của tầm nhìn phát triển, sự kiên định trong đổi mới thể chế và khát vọng vươn lên của cả dân tộc.

Điểm nổi bật trong tiến trình 80 năm phát triển kinh tế Việt Nam chính là sự chuyển đổi mô hình không ngừng. Sau năm 1954, cơ chế kế hoạch hóa tập trung ở miền Bắc đã giúp hình thành nền tảng công nghiệp cơ bản và huy động nguồn lực cho công cuộc kháng chiến. Tuy nhiên, những hạn chế cố hữu của cơ chế bao cấp ngày càng bộc lộ rõ nét sau thống nhất đất nước, khiến nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng. Chính bối cảnh đó đã đặt ra nhu cầu bức thiết cho công cuộc Đổi mới năm 1986, tạo bước ngoặt mang tính lịch sử, có ý nghĩa tương đồng với quá trình cải cách ở nhiều nền kinh tế chuyển đổi khác. Từ đây, Việt Nam bắt đầu kiến tạo mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thừa nhận sự tồn tại song hành của nhiều thành phần kinh tế, đồng thời mở cửa hội nhập mạnh mẽ với khu vực và thế giới.

Với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 6,5%/năm trong bốn thập kỷ sau Đổi mới, Việt Nam đã thoát khỏi nhóm quốc gia nghèo nhất thế giới và trở thành một “hình mẫu Đông Á” về xóa đói giảm nghèo. Tỷ lệ nghèo, từng ở mức gần 60% vào đầu thập niên 1990, đã giảm xuống dưới 10% vào thập niên 2010 và hiện chỉ còn khoảng 4% theo chuẩn nghèo quốc gia. Hàng chục triệu người dân đã thoát khỏi cảnh thiếu thốn, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng cải thiện, tầng lớp trung lưu ngày càng mở rộng. Thành tựu này không chỉ phản ánh sự thay đổi sâu sắc trong chất lượng cuộc sống mà còn cho thấy mức độ hội nhập ngày càng cao và năng lực cạnh tranh ngày càng lớn của nền kinh tế Việt Nam.

Động lực tạo nên những bước tiến vượt bậc ấy chính là chuỗi chính sách cải cách không ngừng nghỉ, từ “khoán” trong nông nghiệp và trao quyền tự chủ cho hộ gia đình; mở cửa thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài; cải cách doanh nghiệp nhà nước và phát triển khu vực tư nhân; cho đến hội nhập sâu rộng vào các hiệp định thương mại khu vực và toàn cầu. Mỗi bước đi cải cách vừa giải phóng nguồn lực trong nước, vừa tận dụng hiệu quả dòng vốn, công nghệ và tri thức từ bên ngoài, tạo nên sự cộng hưởng mạnh mẽ đưa kinh tế Việt Nam bứt phá.

Sự trỗi dậy mạnh mẽ của xuất khẩu là minh chứng rõ nét cho quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Từ chỗ phụ thuộc vào các mặt hàng truyền thống như gạo, cà phê và dệt may, Việt Nam đã vươn lên trở thành một trung tâm sản xuất điện tử, điện thoại và máy tính cho toàn cầu. Năm 2024, riêng nhóm mặt hàng điện tử, điện thoại, máy tính và linh kiện… đã đạt gần 135 tỷ USD, chiếm 33,2% tổng kim ngạch xuất khẩu, chứng minh sự dịch chuyển mạnh mẽ lên các lĩnh vực công nghệ cao.

Điều cũng này cho thấy chiến lược mở cửa và thu hút đầu tư nước ngoài đã mang lại những thành quả vượt bậc, giúp Việt Nam tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Tuy nhiên, sự phụ thuộc nặng nề vào khu vực FDI cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết phải nâng cao năng lực nội sinh của doanh nghiệp trong nước, phát triển công nghiệp hỗ trợ, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo và đa dạng hóa cơ cấu xuất khẩu, nhằm đảm bảo tăng trưởng bền vững và giảm thiểu các cú sốc từ bên ngoài.

Cơ cấu tăng trưởng của Việt Nam cũng ngày càng cải thiện về chất. Nếu như giai đoạn đầu, tăng trưởng chủ yếu dựa trên vốn đầu tư và lợi thế lao động giá rẻ, thì nay năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) đã chiếm khoảng 45–50% mức tăng trưởng. Đây là dấu hiệu cho thấy tác động tích cực của cải cách thể chế, sự bứt phá trong đầu tư hạ tầng, cùng với quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.

Đáng chú ý, nền kinh tế số đang nổi lên như một động lực tăng trưởng mới. Năm 2024, kinh tế số đã đóng góp tới 18,3% GDP, với tốc độ tăng trưởng hàng năm trên 20%, gấp ba lần tốc độ tăng trưởng GDP chung. Sự phát triển này đã đưa Việt Nam vào quỹ đạo cạnh tranh mới dựa trên tri thức, công nghệ và đổi mới sáng tạo, thay vì chỉ dựa vào vốn và lao động truyền thống. Đây là cơ sở để Việt Nam nuôi dưỡng tham vọng bứt phá, song cũng đặt ra thách thức về hạ tầng số, an ninh mạng và chất lượng nguồn nhân lực số.

Tuy nhiên, bức tranh tám thập kỷ phát triển không chỉ có những gam sáng. Nguy cơ rơi vào “bẫy thu nhập trung bình” vẫn hiện hữu khi năng suất lao động của Việt Nam năm 2024 chỉ đạt khoảng 9.200 USD, thấp hơn nhiều so với Malaysia hay Thái Lan. Dư địa tăng trưởng theo chiều rộng bằng vốn và lao động giá rẻ ngày càng thu hẹp khi lực lượng lao động trong độ tuổi đã bắt đầu giảm từ năm 2014 và quá trình già hóa dân số diễn ra nhanh chóng. Bên cạnh đó, sự phụ thuộc quá lớn vào khu vực FDI vẫn là điểm yếu căn bản khi khu vực này đóng góp tới khoảng 72% kim ngạch xuất khẩu năm 2024, trong đó riêng ngành điện thoại và thiết bị điện tử chủ yếu do các tập đoàn đa quốc gia chi phối. Điều này đặt ra yêu cầu cấp bách phải nâng cao năng lực của doanh nghiệp trong nước, phát triển công nghiệp hỗ trợ và khuyến khích đổi mới sáng tạo nội sinh để giảm thiểu rủi ro phụ thuộc.

Cùng với đó, nhiều nút thắt phát triển vẫn chậm được tháo gỡ. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tuy đã hình thành nhưng còn nhiều bất cập về tính minh bạch, đồng bộ và khả năng thực thi. Cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao thông và hạ tầng số, vẫn chưa theo kịp tốc độ phát triển kinh tế, tạo ra những điểm nghẽn về kết nối vùng và hội nhập toàn cầu. Nguồn nhân lực dù đông đảo nhưng chất lượng, kỹ năng và năng lực sáng tạo còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên kinh tế số và chuyển đổi xanh. Bên cạnh đó, mô hình quản lý nhà nước nhìn chung và quản trị địa phương nói riêng vẫn thiên về hành chính, mệnh lệnh, thiếu tính linh hoạt, chưa khuyến khích được tinh thần cạnh tranh, tự chủ và đổi mới sáng tạo từ cơ sở.

Song song với đó, những thách thức mang tính dài hạn như biến đổi khí hậu, quá trình già hóa dân số và biến động địa chính trị toàn cầu ngày càng phức tạp, tất cả tạo nên sức ép mới buộc mô hình tăng trưởng của Việt Nam phải thích ứng linh hoạt hơn. Mục tiêu không chỉ là duy trì tốc độ tăng trưởng cao mà còn là nâng chất lượng tăng trưởng, bảo đảm tính bền vững, đồng thời cải thiện năng lực quản trị quốc gia để tăng sức chống chịu và khả năng bứt phá trong giai đoạn mới.

Nhìn lại tám mươi năm qua, kinh tế Việt Nam đã chứng minh sức mạnh tự cường và năng lực chuyển mình phi thường của một dân tộc từng đi lên từ đổ nát chiến tranh và đói nghèo. Bước vào kỷ nguyên mới, Việt Nam được nhìn nhận là một nền kinh tế mới nổi năng động, đồng thời nuôi dưỡng khát vọng lớn lao trở thành một “Phép màu Đông Á” trong thế kỷ XXI với mục tiêu tăng trưởng “hai con số”. Để đạt được mục tiêu này đòi hỏi sự đột phá mạnh mẽ về thể chế, sự phát triển của đổi mới sáng tạo, việc xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao và quá trình kiến tạo một mô hình tăng trưởng bền vững. Mục tiêu là vươn tới nhóm quốc gia thu nhập cao vào giữa thế kỷ này, đồng thời viết nên một trang sử mới, nơi Việt Nam sánh vai cùng những nền kinh tế thành công bậc nhất châu Á, khẳng định vị thế một quốc gia hùng cường, thịnh vượng và có đóng góp xứng đáng vào sự phát triển của thế giới./.