Nhiều người thường đề cập đến nạn tín dụng đen là do yếu kém của hệ thống tài chính, bởi hệ thống này đã không đáp ứng được nhu cầu vay vốn của một bộ phận người dân thuộc tầng lớp thu nhập thấp hay các nhóm yếu thế, nhóm dễ tổn thương trong xã hội, và do đó các giải pháp giảm tín dụng đen chủ yếu: (i) tập trung triệt phá các ổ nhóm cho vay nặng lãi, và xa hơn (ii) là cải cách hệ thống tài chính. Điều này là đúng nhưng vẫn chưa đủ. Bởi chức năng của ngân hàng thương mại là phải sàn lọc rủi ro và đảm bảo hiệu quả cho vay. Nhà nước muốn lấp đầy khoảng trống này thì phải tìm cách tăng cường vai trò của tín dụng chính sách. Tuy nhiên, nhìn rộng hơn nữa thì nạn tín dụng đen ở Việt Nam còn do khiếm khuyết của hệ thống chính sách an sinh xã hội.

Theo ILO, chính sách an sinh xã hội cung cấp một sự bảo trợ xã hội cho các cá nhân và gia đình về khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe và an ninh thu nhập, đặc biệt trong các trường hợp do tuổi già, thất nghiệp, ốm đau, tàn tật, tai nạn lao động, thai sản hoặc mất người trụ cột trong gia đình. Khi kinh tế suy thoái, nhiều doanh nghiệp đóng cửa, lao động thất nghiệp, thu nhập bị giảm sút. Khó khăn khiến nhiều người tìm đến tín dụng đen bất chấp những rủi ro của nó mà ai đi vay cũng biết nhưng không có lựa chọn nào khác. Rõ ràng nếu có bảo hiểm thất nghiệp, người lao động sẽ được hỗ trợ một khoản thu nhập tạm thời để trang trải cuộc sống trước mắt, chờ tìm được việc làm mới. Với người già nếu có lương hưu đủ sống và được chăm sóc sức khỏe miễn phí thì khả năng họ tìm đến với tín dụng đen cũng sẽ giảm đi. Tương tự, nếu mọi trẻ em đều được nhà nước tài trợ học tập và chăm sóc y tế miễn phí thì cũng không thể xem là gánh nặng đối với một số gia đình thu nhập thấp. Nói chung, nếu mọi người dân đều có ít nhất một lưới an sinh nào đó nâng đỡ mỗi khi không may bị vấp ngã trong cuộc sống thì không đến mức họ phải tìm đến với tín dụng đen. Đương nhiên, những người tìm đến tín dụng đen còn nhiều lý do khác, chẳng hạn như cờ bạc, rượu chè hoặc thậm chí là đua đòi tiêu xài hoang phí.

Trên thực tế, không phải người dân nào cũng có ít nhất một lưới an sinh nâng đỡ; không phải người dân nào cũng tham gia BHXH; không phải người lao động nào cũng được nhận trợ cấp thất nghiệp; không phải người già nào cũng có bảo hiểm hưu trí; không phải trẻ em gia đình khó khăn nào cũng được học tập và chăm sóc y tế miễn phí; không phải người yếu thế nào khi gặp cú sốc trong cuộc sống cũng đều được Nhà nước nâng đỡ bằng các chính sách bảo trợ xã hội.

Ở Việt Nam, vai trò và ý nghĩa của chính sách an sinh xã hội được thể hiện trong nhiều văn kiện quan trọng, nhất là Nghị quyết 28-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 7 BCHTW Đảng khoá XII về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội. Theo đó, Đảng và Nhà nước khẳng định sự “quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và thực hiện chính sách an sinh xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, coi đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển bền vững đất nước.” Tuy nhiên, hiện vẫn còn nhiều khoảng cách giữa mong muốn với thực tế.

Theo báo cáo của BHXH Việt Nam, đến cuối năm 2023 có khoảng hơn 18 triệu người tham gia BHXH, chiếm khoảng 34,5% lực lượng lao động, trong đó BHXH bắt buộc là hơn 16,34 triệu người và BHXH tự nguyện là gần 1,72 triệu người. Số người tham gia BHTN khoảng 14,63 triệu người, tức xấp xỉ 27,9% lực lượng lao động và số người tham gia BHYT đạt 91,8 triệu người, bao phủ hơn 91,6% dân số. Ngành BHXH trong những năm qua đã rất nỗ lực trong việc nâng độ bao phủ các loại bảo hiểm, tuy nhiên vì nhiều lý do khách quan lẫn chủ quan mà mức độ bao phủ hiện vẫn còn thấp so với yêu cầu cũng như mục tiêu mà NQ28 đã đề ra.

Theo thống kê, Việt Nam hiện có dân số hơn 100,3 triệu người, trong đó dân số trong độ tuổi lao động từ 15 đến 64 ước khoảng gần 68,5 triệu người, dân số trên 64 tuổi khoảng gần 6,3 triệu, còn lại khoảng 25,5 triệu người dưới 15 tuổi. Tỷ lệ dân số phụ thuộc theo độ tuổi khoảng 31,7% tổng dân số, tương đương 46,4% số người trong độ tuổi lao động. Tỷ lệ phụ thuộc độ tuổi đã giảm mạnh từ 81,9% năm 1986 xuống mức thấp nhất là 43,3% năm 2013, sau đó đảo chiều tăng trở lại lên mức hơn 46% hiện nay. Trong khi tốc độ tăng trưởng dân số ngày càng giảm, số người bước qua tuổi già ngày càng tăng, thách thức an sinh xã hội là vô cùng lớn. Với 31,7% dân số, tương đương gần 31,8 triệu người ngoài độ tuổi lao động và như vậy về cơ bản là phụ thuộc vào 68,5 triệu người, tức bình quân cứ 2,15 người phải lo cho 1 người. So với thế giới, Việt Nam là nước có thu nhập trung bình thấp nhưng hệ số phụ thuộc lại khá cao so với nhóm nước thu nhập trung bình cao và thu nhập cao trong khu vực như Thái Lan (44%), Malaysia (43%), Singapore (37%), Hàn Quốc (41%), Trung Quốc (44,9%)…

Tỷ lệ phụ thuộc lớn tạo ra thách thức không nhỏ cho nhóm bảo trợ, có thể tạo gánh nặng tài chính mà với nhóm dưới 15 tuổi chủ yếu là giáo dục và với nhóm trên 64 tuổi chủ yếu là y tế. Nếu chúng ta có một hệ thống giáo dục ở đó trẻ em đều được học tập miễn phí, cả học phí và chi phí học tập thì gánh nặng tài chính đối với gia đình thu nhập thấp sẽ giảm đi rất nhiều. Tương tự, nếu bảo hiểm hưu trí và y tế bao phủ tốt đối với nhóm cao tuổi thì vấn đề chi phí y tế không còn là nỗi lo của những gia đình có người già hay người bị bệnh tật. Những bất trắc do bệnh tật mang lại là không thể lường trước nên nếu có một hệ thống bảo hiểm y tế tốt thì người dân có lẽ sẽ không phải tìm đến tín dụng đen.

Trong số 68,5 triệu người trong độ tuổi lao động thì chỉ có 52,4 triệu người là tham gia lực lượng lao động, tức chỉ chiếm khoảng 76,5%. Điều cần nói thêm là số người tham gia lực lượng lao động đã đạt đỉnh năm 2019 với gần 55,77 triệu người, nhưng sau đó đã giảm còn 54,84 triệu năm 2020, tiếp tục giảm mạnh xuống còn 50,56 triệu người năm 2021 do Covid-19. Đến năm 2022, lực lượng lao động phục hồi nhẹ trở lại lên 51,7 triệu người và năm 2023 ước là 52,4 triệu người. Như vậy, so với thời kỳ đỉnh cao 2019 thì vẫn còn 3,37 triệu người chưa tham gia trở lại lực lượng lao động, chưa kể tính bình quân từ 2017 đến 2019 có khoảng nửa triệu người bổ sung thêm vào lực lượng lao động mỗi năm. Có lẽ chúng ta đều nhớ rằng, trong giai đoạn Covid-19 nổ ra, đã có một lực lượng lớn người lao động rời bỏ các đô thị lớn và trung tâm công nghiệp trở về quê. Hiện câu hỏi chưa rõ trả lời là những người này đang ở đâu, làm gì, thu nhập thế nào và sống ra sao?

Như vậy, ngoài 31,8 triệu người phụ thuộc còn có 16,1 triệu người nữa cũng xem như tương đương phụ thuộc, nâng tổng số người phụ thuộc và tương đương lên hơn 47,9 triệu người, tức bình quân 1 người chỉ còn 1,1 người lo chứ không phải 2,15 người lo. Chúng ta vẫn không rõ vì sao 16,1 triệu người này không tham gia lực lượng lao động, trong đó có những người mà trước Covid-19 họ vẫn tham gia lao động thì nay rút khỏi lực lượng lao động. Trong số những người không tham gia lực lượng lao động có thể do bị tàn tật, mất sức lao động, sức khỏe yếu, có thể do hậu quả của Covid-19, hoặc đơn giản là do họ không muốn làm việc nữa!? Cũng có thể một tỷ lệ trong số đó làm việc ở khu vực kinh tế phi chính thức mà chúng ta không quan sát được. Đây là nhóm dễ tổn thương về việc làm nhưng lại thiếu sự bao phủ của hệ thống chính sách bảo trợ xã hội nên dễ rơi vào tín dụng đen nhất.

Trong lực lượng lao động năm 2023 là 52,4 triệu thì số người có việc làm là 51,3 triệu người và số người thất nghiệp là khoảng gần 1,1 triệu người. Như vậy tỷ lệ thất nghiệp duy trì ở mức lý tưởng 2,27%, giảm 0,06 điểm phần trăm, bất chấp hơn 172,6 nghìn doanh nghiệp rút khỏi thị trường, nền kinh tế khó khăn với tốc độ tăng trưởng giảm chỉ còn 5,05% so với 8,02% của năm 2022(?).

Nếu giả sử vẫn sử dụng quy mô lao động như thời điểm trước Covid-19 là năm 2019 với 55,7 triệu người thì số người không có việc làm có lẽ lên đến 3,3 triệu người chứ không phải chỉ 1,1 triệu người. Bởi vì không có lý do đột biến nào khiến cho 2,2 triệu người ‘biến mất’ khỏi thị trường lao động mà không quay lại. Có thể quy mô lực lượng lao động ở những địa phương như TP.HCM, Đồng Nai, Bình Dương giảm, ngược lại tăng ở những tỉnh vùng ĐBSCL hay miền Trung, Tây Nguyên, nhưng tính tổng cả nước không thể giảm một cách đột ngột và với quy mô lớn như vậy. Với tình hình kinh tế khó khăn hậu Covid-19 thì lẽ ra những người này phải tăng cường làm việc nhiều hơn chứ không phải là rời bỏ thị trường. Tỷ lệ thất nghiệp do đó nếu tính đúng bản chất có thể đã lên đến xấp xỉ gần 6% chứ không phải chỉ loanh quanh con số 2% mỗi năm như báo cáo thống kê. Điều này là do sự bất hợp lý trong cách định nghĩa và thống kê lực lượng lao động. Có thể những người đó đã rời bỏ thị trường lao động chính thức và chuyển sang lao động phi chính thức. Ở khu vực này thì mạng lưới các chính sách bảo trợ xã hội lại càng khiếm khuyết và mong manh. Đây là cơ hội cho nạn tín dụng đen thêm hoành hành thời gian qua…